Trong vụ Hè Thu, cây lúa vừa phải chóng chọi với diễn biến thất thường của thời tiết vừa phải chóng chọi với các loại bệnh hại tấn công. Khô vằn – một  trong những loại bệnh trên cây lúa khiến bà con lo lắng, đau đầu. Bệnh khô vằn gây thiệt hại từ 20-30% năng suất lúa.

khô vằn

Nguyên nhân gây bệnh khô vằn

Tác nhân gây bệnh là nấm Rhizoctonia solani. Nhiệt độ thích hợp cho nấm phát triển mạnh là từ 28–32°C. Khi nhiệt độ xuống dưới 10°C hoặc vượt quá 38°C, sự phát triển của nấm bị ức chế. Ở nhiệt độ dưới 12°C hoặc trên 40°C, nấm không hình thành hạch.

Cách nhận biết vết bệnh khô vằn

Bệnh khô vằn gây hại chủ yếu trên bẹ lá, phiến lá và cổ bông của cây lúa. Các bẹ lá già, đặc biệt là những bẹ tiếp xúc gần với mặt nước, thường là vị trí phát sinh bệnh đầu tiên. Vết bệnh ban đầu xuất hiện dưới dạng đốm hình bầu dục, màu lục tối hoặc xám nhạt, sau đó lan rộng tạo thành các vệt dạng vằn da hổ hoặc đám mây. Khi bệnh phát triển nặng, cả bẹ và phần phiến lá phía trên có thể bị héo khô và chết.

Khô vằn

Trên lá, vết bệnh có hình dạng và đặc điểm tương tự như trên bẹ lá. Chúng lan rộng nhanh, chiếm toàn bộ bề mặt phiến lá và tạo thành các mảng lớn hình vân mây hoặc vằn da hổ. Bệnh thường bắt đầu từ các lá già hoặc lá sát mặt nước, sau đó lan dần lên các lá phía trên.

Vết bệnh tại cổ bông thường có dạng vết kéo dài bao quanh cổ bông, hai đầu vết có màu xám nhạt loang, phần giữa chuyển sang màu lục sẫm và có biểu hiện co tóp lại. Trên các vết bệnh ở bẹ lá, phiến lá và cổ bông thường xuất hiện hạch nấm màu nâu, hình tròn dẹt hoặc bầu dục, phân bố rải rác hoặc thành từng cụm nhỏ. Các hạch nấm này dễ bong khỏi mô bệnh và nổi trên mặt nước ruộng.

hạch nấm-khô vằn

Điều kiện phát triển của bệnh khô vằn

Bệnh khô vằn thường xuất hiện ít ở giai đoạn mạ đến đẻ nhánh, nhưng phát triển mạnh và gây hại nghiêm trọng từ giai đoạn làm đòng đến chín sáp. Điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển là nhiệt độ và độ ẩm cao, đặc biệt khi có mưa nhiều và mức nước trong ruộng cao.

Bệnh thường phát sinh ở các bộ phận gần mặt nước như bẹ lá và lá gốc, sau đó lan rộng lên các phần trên của cây. Mật độ gieo trồng dày và chế độ bón phân không hợp lý, đặc biệt là bón thừa phân đạm, làm tăng mức độ gây hại của bệnh.

Nguồn bệnh tồn tại chủ yếu dưới dạng hạch nấm trong đất ruộng, sợi nấm trong gốc rạ hoặc lá bệnh còn sót lại sau thu hoạch. Hạch nấm có khả năng tồn tại trong thời gian dài, thậm chí trong điều kiện ngập nước vẫn có khoảng 30% số hạch còn sống sót. Hầu hết các giống lúa ở Việt Nam, kể cả giống địa phương và giống nhập nội, đều có mức độ nhiễm bệnh khô vằn từ trung bình đến nặng.

Biện pháp phòng trừ

Biện pháp canh tác và cơ học

  • Vệ sinh đồng ruộng: Cày bừa kỹ, vùi lấp tàn dư thực vật và hạch nấm sau thu hoạch nhằm giảm nguồn bệnh.
  • Chọn giống: Sử dụng giống sạch bệnh, có khả năng chống chịu để hạn chế mầm bệnh lây lan.
  • Gieo sạ hợp lý: Chọn thời điểm gieo sạ phù hợp, áp dụng mật độ gieo vừa phải tùy theo giống để đảm bảo thông thoáng, giảm ẩm độ trong ruộng.
  • Quản lý phân bón: Bón phân cân đối, tránh sử dụng quá nhiều đạm nhằm hạn chế sự phát triển mạnh của vết bệnh.
  • Điều tiết nước: Quản lý mực nước trong ruộng hợp lý, không để nước quá cao khi bệnh xuất hiện nhằm giảm điều kiện thuận lợi cho nấm phát triển.

Biện pháp hóa học

Để quản lí hiệu quả bệnh khô vằn do nấm (rhizoctonia solani) gây ra, cần chủ động phun sớm khi thấy bệnh xuất hiện.Lưu ý trước khi phun nên rút cạn nước ruộng và phun sát mặt lá để tăng khả năng tiếp xúc của thuốc với vết bệnh, nâng cao hiệu quả diệt nấm. Một số thuốc hiệu quả như TK-VIL 10 ( sản phẩm chứa hoạt chất Hexaconazole 10%) có tác dụng đặc trị bệnh khô vằn, với cơ chế nội hấp lưu dẫn mạnh, ức chế  nhanh quá tình tổng hợp màng tế bào nấm, giúp kiểm soát triệt để vết bệnh sau khi phun thuốc. Bên cạnh việc quản lý nấm bệnh khô vằn sản phẩm TK-VIL 10 là giải pháp rửa lá chân (tuột lá ủ), hạn chế nơi trú ngụ của côn trùng nấm bệnh gây hại.

Hướng dẫn sử dụng

Liều dùng: Pha 20ml TK-VIL10 cho bình 20 – 25 lít nước hoặc 200ml cho phuy 200 lít nước.

Liều lượng: 0.1%

Lượng nước phun: 400-600 lít/ha

Thời điểm phun: Phun thuốc ngay khi bệnh mới xuất hiện, tỷ lệ bệnh khoảng 5 – 10%.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *